Sự xâm nhập của đá lửa, ngày nay được gọi là Castle Rock, được hình thành do hoạt động núi lửa hàng triệu năm trước. Chỗ bị xâm nhập này có khả năng chống xói mòn bởi sông băng ở mức tối đa so với nền đá xung quanh, để lại địa điểm phòng thủ nổi tiếng mà chúng ta biết ngày nay.
Những bức tường bảo vệ của lâu đài hòa vào nền đá lộ ra ngoài như thể chúng là một thực thể. Đối với người dân định cư ở Edinburgh, luôn có một tượng đài bảo vệ trông chừng thị trấn nên các phiến đá và khả năng phòng thủ luôn đi đôi với nhau.
Khu định cư được xây dựng xung quanh địa điểm Din Eidyn; một pháo đài trên đá và khu định cư La Mã thịnh vượng. Mãi cho đến cuộc xâm lược của người Angles vào năm 638 sau Công nguyên, tảng đá mới được biết đến với tên tiếng Anh; Edinburgh. Thị trấn Edinburgh phát triển từ những ngôi nhà đầu tiên được xây dựng trên khu vực ngày nay được gọi là Lawnmarket và sau đó đi xuôi xuống sườn đá, tạo thành một con phố duy nhất, Royal Mile. Con phố được gọi như vậy vì đây là tuyến đường mà hoàng gia sẽ đi khi đến lâu đài và nhiều người dân xưa kia cũng đã đi theo con đường này.
(Đường Royal Mile trong khoảng năm 1950 ~ 1960)
(Đường Royal Mile ngày nay)
Nơi đây trở thành lâu đài hoàng gia chính của Scotland vào thời Trung cổ, đóng vai trò là trụ sở của cảnh sát trưởng Edinburgh; quân đội đóng quân ở đó, cùng với đoàn súng hoàng gia, và những viên ngọc quý được cất giữ. Chính Vua David I vào năm 1130 đã lần đầu tiên xây dựng một số tòa nhà ấn tượng và nguy nga mà chúng ta thấy ngày nay. Nhà nguyện dành riêng cho mẹ ông, Nữ hoàng Margaret, vẫn là tòa nhà cổ nhất ở Edinburgh! Nó vẫn sống sót sau một loạt thiệt hại liên tục trong Chiến tranh giành độc lập của Scotland với “kẻ thù lớn” - nước Anh.
(Nhà nguyện St Margaret)
Như đã đề cập ở trên, Royal Mile được gọi như vậy vì đây là con đường của hoàng gia đi lên lâu đài. Các bức tường đã phải chịu đựng hết cuộc vây hãm này đến cuộc vây hãm khác dưới bàn tay của người Anh, và quyền lãnh đạo lâu đài đã được đổi chủ gần như vô số lần.
Người đầu tiên chiếm được lâu đài từ tay người Scotland là Edward I sau cuộc vây hãm kéo dài ba ngày vào năm 1296. Nhưng sau đó, sau cái chết của nhà vua vào năm 1307, thành trì của người Anh suy yếu và Ngài Thomas Randolph, Bá tước Moray, thay mặt Robert the Bruce, đã giành lại nó một cách “ồn ào” vào năm 1314. Cuộc tấn công của ông là một cuộc tấn công bất ngờ dưới sự bao phủ của bóng tối, chỉ bởi ba mươi người đàn ông leo lên các vách đá phía bắc. Hai mươi năm sau, người Anh chiếm lại nó nhưng chỉ bảy năm sau, Ngài William Douglas, một quý tộc và hiệp sĩ người Scotland, đã giành lại nó bằng một cuộc tấn công bất ngờ bằng cách người của ông ta cải trang thành thương gia.
Tháp David (được xây dựng vào năm 1370 bởi David II, con trai của Robert the Bruce, người đã trở về Scotland sau 10 năm bị giam cầm ở Anh) được xây dựng như một phần của việc tái thiết địa điểm lâu đài sau sự tàn phá trong Chiến tranh giành độc lập. Nó rất khổng lồ đối với một tòa nhà thời đó, cao ba tầng và có chức năng như lối vào lâu đài. Do đó, nó là rào cản giữa tấn công và phòng thủ trong bất kỳ trận chiến nào.
Chính cuộc “Vây hãm Lang” (Lang Siege) đã khiến tòa tháp này sụp đổ. Trận chiến kéo dài cả năm đã nổ ra khi Nữ hoàng Công giáo Mary của Scotland kết hôn với James Hepburn, Bá tước Bothwell và một làn sóng nổi dậy chống lại liên minh đã nổi lên trong giới quý tộc Scotland. Mary cuối cùng buộc phải chạy trốn sang Anh nhưng vẫn có những người ủng hộ trung thành ở lại Edinburgh, nắm giữ lâu đài cho cô và ủng hộ việc cô giành lấy ngai vàng. Một trong những người đáng chú ý nhất là Ngài William Kirkcaldy, Thống đốc Lâu đài. Ông đã giữ lâu đài trong một năm để chống lại “Cuộc vây hãm Lang” cho đến khi Tháp David bị phá hủy, cắt nguồn cung cấp nước duy nhất cho lâu đài. Người dân chỉ trụ được vài ngày trong những điều kiện này trước khi họ buộc phải đầu hàng. Tòa tháp đã được thay thế bằng Khẩu đội bán nguyệt (Half Moon Battery) tồn tại cho đến ngày nay.
(Khẩu thần công Mons Meg nổi tiếng tại Lâu đài)
Trước khi kết hôn với James Hepburn, Mary sinh James VI (năm 1566 với người chồng trước của cô, Lord Darnley), người cũng trở thành James I của Anh trong "Liên minh các vương miện". Sau đó, triều đình Scotland di dời từ Edinburgh đến London, khiến lâu đài chỉ còn chức năng quân sự. Vị vua cuối cùng cư trú tại lâu đài là Charles I vào năm 1633 trước khi đăng quang làm Vua xứ Scotland.
(Vua Charles I)
Nhưng ngay cả điều này cũng không bảo vệ được các bức tường lâu đài khỏi bị bắn phá thêm trong những năm sau đó! Cuộc nổi dậy của người Jacobite vào thế kỷ 18 đã gây ra nhiều bất ổn. Chủ nghĩa Jacobitism là phong trào chính trị đấu tranh để khôi phục ngai vàng của các vị vua Stuart ở Anh, Scotland và Ireland. Tại Edinburgh, James VII của Scotland và II của Anh sẽ được trao trả. Cuộc nổi dậy năm 1715 chứng kiến những người Jacobite tiến gần đến việc chiếm lấy lâu đài theo phong cách giống như phong cách mà người của Robert the Bruce đã làm hơn 400 năm trước; bằng cách mở rộng các vách đá hướng về phía bắc. Cuộc nổi dậy năm 1745 chứng kiến việc chiếm được Cung điện Holyrood (ở đầu đối diện của Royal Mile với lâu đài) nhưng lâu đài vẫn không bị phá vỡ.
Kể từ đó, người ta không thấy hành động nào như vậy ở lâu đài Edinburgh. Lâu đài hiện đóng vai trò là đồn quân sự và là nơi đặt Đài tưởng niệm Chiến tranh Quốc gia Scotland. Đây cũng là nơi tổ chức Dạ hội Quân đội Edinburgh nổi tiếng. Đây là nơi lưu giữ Vương miện Ngọc trai (còn được gọi là “Danh dự của Scotland”) và cũng là Hòn đá Định mệnh kể từ khi nó trở về Scotland từ Westminster vào năm 1996.
(Crown Jewels - Vương miện Ngọc trai - Danh dự của Scotland hiện đang được trưng bày tại Lâu đài Edinburgh)
Chuyến thăm Edinburgh sẽ không trọn vẹn nếu không có chuyến tham quan tòa nhà lịch sử và đầy cảm hứng này, nơi đã định hình Edinburgh trở thành thủ đô như ngày nay.
Viết bởi: Nguyễn Hoàng Lan