*

câu 11. Phân tích bản chất con bạn theo quan điểm triết học mac-lenin

vì chưng notice
*

*

*
Báo Cáo Truyện
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại nhỏ người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan lại trọng hơn cả là, nhỏ người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa mang đến rằng nhỏ người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... Cái học thuyết ấy quên rằng chính những nhỏ người làm cố kỉnh đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng đến rằng: "Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng đến tới trạng thái hiện ni của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải bởi chúng làm ra và vào chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải vì ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa bé vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu".

Bạn đang xem: Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Nhỏ người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, bé người cũng làm ra lịch sử của mình. Bé người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân bé người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của nhỏ người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, bé người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do nhỏ người đặt ra. Không có hoạt động của bé người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và vị đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

Không có bé người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, vào mối quan tiền hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi mang đến phù hợp. Bản chất nhỏ người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của nhỏ người. Mặc dù là "tổng hoà các quan liêu hệ xã hội", con người có vai trò tích cực vào tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất nhỏ người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.

Vì vậy, để phát triển bản chất bé người theo hướng tích cực, cần phải làm mang đến hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, nhỏ người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan liêu hệ ứng xử, hành vi bé người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng bé người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan lại hệ giữa nhỏ người và hoàn cảnh vào bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

Biện chứng giữa cá nhân và xã hội:

Xã hội là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của một xã hội là cộng đồng tập thể gia đình, cơ quan, đơn vị... Và lớn hơn là cộng đồng xã hội quốc gia, dân tộc... Và rộng lớn nhất là cồng đồng nhân loại.

Xem thêm: Giới Thiệu Về Khu Di Tích Lịch Sử Truông Bồn Nghệ An, Khu Di Tích Truông Bồn

Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể cũng như mối quan tiền hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội nói tầm thường chính là mối quan liêu hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội. Đó cũng là mối quan liêu hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn.

Mỗi cá nhân với tư cách là một bé người, không bao giờ có thể tách rời khỏi những cộng đồng xã hội nhất định, đồng thời mối quan lại hệ giữa cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử.

Là một hiện tượng lịch sử, quan hệ cá nhân - xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, trong đó, sự cố kỉnh đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự cầm cố thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái gớm tế - xã hội khác. Trong giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ, không có sự đối kháng giữa cá nhân và xã hội. Lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội căn bản là thống nhất. Khi xã hội phân phân chia giai cấp, quan hệ cá nhân và xã hội vừa có thống nhất vừa có mâu thuẫn và mâu thuẫn đối kháng. Trong chủ nghĩa xã hội, những điều kiện của xã hội mới tạo tiền đề mang lại cá nhân, để mỗi cá nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của mình, phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới. Vì vậy, xã hội xã hội chủ nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện của nhau.

Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan liêu hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Mặt khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội. Bất cứ vấn đề gì, dù là phạm vi nhân loại tuyệt cá nhân, dù trực tiếp xuất xắc gián tiếp, nếu lợi ích cá nhân và xã hội là thống nhất thì chính ở đó bắt gặp mục đích và động lực của sự nỗ lực phổ biến vì một tương lai tốt đẹp.

Mối quan tiền hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bởi vì sự quy định của mặt khách quan và mặt chủ quan. Mặt khách quan lại biểu hiện ở trình độ phát triển và năng suất lao động xã hội. Mặt chủ quan lại biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tức thì cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Vị đó, để giải quyết đúng đắn quan liêu hệ cá nhân - xã hội, cần phải tránh nhị thái độ cực đoan. Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân. Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, quan liêu niệm không đúng lầm về lợi ích xã hội, về chủ nghĩa tập thể, thực chất là chủ nghĩa bình quân, coi nhẹ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu, lợi ích cá nhân càng đa dạng. Nếu không quan tiền tâm đến vấn đề cá nhân, sẽ dẫn đến một xã hội nghèo nàn, chậm phát triển, không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội.